Tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam

Tài Nguyên
    Tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
    Ngày đăng: 09/04/2025

    Thị trường tài chính Việt Nam mở rộng là minh chứng cho việc hội nhập quốc tế khi các ngân hàng nước ngoài đã và đang có xu hướng mở rộng hoạt động tại Việt Nam, đồng thời việc mở rộng các chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trở thành xu thế tất yếu. Tuy nhiên, việc định hình tư cách pháp lý của chi nhánh các ngân hàng nước ngoài hoạt động trong hệ thống tài chính Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này, đặc biệt là tư cách pháp nhân trong các quan hệ pháp luật, bao gồm cả hoạt động tố tụng.

     

     

    1. Quy định hiện hành về tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài

    Theo khoản 1 Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng các điều kiện để được công nhận bởi pháp luật như một chủ thể độc lập, có cơ cấu, có tài sản, quyền và nghĩa vụ pháp lý riêng biệt và khả năng nhân danh chính mình tham gia giao dịch. Tuy nhiên, đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, chi nhánh không được xem là một thực thể pháp nhân độc lập hoàn toàn mà là “phần mở rộng” của ngân hàng nước ngoài, yếu tố này được thể hiện tại quy định của Luật các Tổ chức tín dụng 2024. Tại khoản 5 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2024 có quy định: “Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức kinh tế không có tư cách pháp nhân và là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam”.

    Thêm vào đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư 56/2024/TT-NHNN, việc thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam phải trải qua thủ tục cấp Giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài thay vì đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2020. Quy đinh này đồng nghĩa với việc chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng không được ghi nhận tư cách pháp nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

    Một khía cạnh cần được làm rõ là sự khác biệt giữa chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Trong khi chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động theo nguyên tắc “đại diện” cho ngân hàng nước ngoài và không có tư cách pháp nhân độc lập thì ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức của một pháp nhân riêng biệt tại Việt Nam. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài có hệ thống quản trị nội bộ độc lập, có khả năng tự mình ký kết hợp đồng và chịu trách nhiệm pháp lý trực tiếp. Một yếu tố then chốt trong việc xác định tư cách pháp nhân của chi nhánh là mối quan hệ pháp lý giữa chi nhánh và ngân hàng nước ngoài. Mặc dù chi nhánh ngân hàng nước ngoài được giao quyền tự chủ nhất định trong việc điều hành các hoạt động hàng ngày như uỷ quyền ký kết hợp đồng giao dịch, xử lý các thủ tục hành chính cơ bản và triển khai kế hoạch kinh doanh đã được ngân hàng nước ngoài (ngân hàng mẹ) ủy quyền, các quyết định chiến lược và phương hướng kinh doanh quan trọng vẫn có thể phải được ngân hàng mẹ phê duyệt. Hơn nữa, mọi trách nhiệm phát sinh từ hoạt động của chi nhánh, bao gồm cả tranh chấp thương mại và vi phạm pháp luật, đều được chuyển giao về ngân hàng mẹ theo quy định của pháp luật.

    Như vậy, có thể thấy, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là một đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, không có tư cách pháp nhân, do đó, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được coi là một thực thể pháp lý độc lập theo hệ thống pháp luật Việt Nam.

     

    Nguồn: Cathay United Bank Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh

    2. Xác định tư cách pháp lý của chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi tham gia vào hoạt động tố tụng

    Trước khi Luật Các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực, Luật Các tổ chức tín dụng 1997 không đề cập đến tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Do đó, tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi tham gia quan hệ pháp luật được xác định theo Bộ luật Dân sự và Luật Doanh nghiệp. Sau này, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 chính thức ghi nhận chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có tư cách pháp nhân tại khoản 9 Điều 4 và tinh thần này tiếp tục được duy trì tại khoản 5 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2024.

    Trên tinh thần đó có thể hiểu chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam không được coi là một thực thể pháp nhân độc lập, mà chỉ là một bộ phận trực thuộc ngân hàng nước ngoài. Theo đó, các hoạt động của chi nhánh phải được thực hiện trong khuôn khổ do ngân hàng nước ngoài đề ra và chịu sự giám sát của cơ quan quản lý nhà nước. Do vậy, khi có tranh chấp hoặc vi phạm pháp luật phát sinh từ hoạt động của chi nhánh, trách nhiệm pháp lý cuối cùng thuộc về ngân hàng nước ngoài, qua các hoạt động này một lần nữa cũng khẳng định rằng chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có tư cách pháp nhân độc lập.

    Việc chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có tư cách pháp nhân có thể gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động tố tụng, đặc biệt đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập hợp pháp tại thời điểm trước khi Luật Các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực. Theo Điều 86 và Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015, pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự và trách nhiệm dân sự, do đó có thể tham gia hoạt động tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do không có tư cách pháp nhân, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không thể tự mình tham gia tố tụng như một chủ thể độc lập.

    Thực tiễn cho thấy, tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn gây khó khắn trong việc hiểu và vận dụng các quy định pháp luật từ cơ quan có thẩm quyền và toà án. Trong vụ việc liên quan đến Ngân hàng TNHH C – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Dương đã từ chối đơn khởi kiện của ngân hàng này vì cho rằng chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có tư cách pháp nhân để tham gia tố tụng. Trong khi đó, theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (đăng ký lần đầu năm 2002), Ngân hàng TNHH C được xác định là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Theo khoản 2 Điều 74 Luật Doanh nghiệp 2020, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp[1].

    Ngoài ra, theo Công văn số 09928/ĐKKD-T6 ngày 15/12/2023, Phòng Đăng ký Kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM cũng phản hồi rằng cơ quan này không có thẩm quyền xác nhận tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài mà cần tham khảo vào khoản 8 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010.

    Trước sự chưa rõ ràng trong việc xác định tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Công văn 2526/BKHĐT-ĐKKD ngày 04/4/2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng khẳng định rằng cơ quan này không có chức năng xác định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. Tuy nhiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết căn cứ Điều 3 Luật Doanh nghiệp 2020, trong trường hợp có quy định đặc thù về thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động của doanh nghiệp, các quy định của luật chuyên ngành sẽ được áp dụng; do đó, tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được xác định theo khoản 9 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010, không có tư cách pháp nhân. Do vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có cùng quan điểm nhìn nhận tư cách pháp lý của chi nhánh ngân hàng nước ngoài như Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương rằng chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có tư cách pháp nhân.

    Qua thực tiễn trên có thể nhận thấy tư cách pháp nhân của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được xây dựng trên nền tảng pháp lý vững chắc của các văn bản pháp luật chuyên ngành. Mặc dù chi nhánh được hưởng quyền tự chủ nhất định trong hoạt động hàng ngày nhưng mọi trách nhiệm pháp lý vẫn thuộc về ngân hàng nước ngoài. Cần lưu ý rằng, tư cách pháp lý của ngân hàng nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là riêng biệt, tránh nhầm lẫn giữa việc xác định tư cách pháp nhân của chi nhánh như tư cách của ngân hàng 100% vốn nước ngoài có thể sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của chi nhánh trên thực tế.

    Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc hiểu rõ và áp dụng đúng tư cách pháp nhân của chi nhánh, cụ thể là chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là yếu tố quan trọng để các chi nhánh, ngân hàng nước ngoài cũng như những cá nhân đang làm việc tại các đơn vị này có thể thực hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã được pháp luật trao cho đơn vị mình, tránh những sai sót không đáng có.


    [1] [https://fileportalcms.mpi.gov.vn/TinBai/PhanAnhKienNghi/2024-04/Cauhoicuabandoc.pdf], truy cập ngày 05/4/2025.