Một số vấn đề nổi bật cần sớm được điều chỉnh, bổ sung tại Luật Trọng tài thương mại

Tài Nguyên
    Một số vấn đề nổi bật cần sớm được điều chỉnh, bổ sung tại Luật Trọng tài thương mại
    Ngày đăng: 16/02/2024

    Luật Trọng tài thương mại ra đời năm 2010, thay thế Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, đã có nhiều bước tiến quan trọng, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tố tụng trọng tài tại Việt Nam. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ có hiệu lực trên thực tiễn, Luật Trọng tài thương mại đã phát sinh nhiều vấn đề pháp lý quan trọng, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần sớm có hướng điều chỉnh kịp thời. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến một số vấn đề nổi bật chưa được giải quyết theo quy định của pháp luật trọng tài hiện hành và cần sớm được bổ sung, điều chỉnh trong thời gian tới.

    1. Quy định về miễn trừ/giới hạn trách nhiệm của trọng tài viên

    1.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam

    Theo quy định hiện hành tại Luật Trọng tài thương mại 2010, Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP, vấn đề miễn trừ trách nhiệm của trọng tài viên gần như chưa được đề cập. Hiện tại, chỉ có một quy định tại Khoản 5 Điều 49 Luật Trọng tài thương mại 2010 liên quan đến việc người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án đòi bồi thường trong trường hợp hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời gây thiệt hại. Tuy nhiên đây vẫn chỉ là một trong rất nhiều trường hợp có thể phát sinh mà trách nhiệm của trọng tài viên cần phải xem xét. Ngoài ra, quy tắc tố tụng trọng tài của đa số các trung tâm trọng tài tại Việt Nam như VIAC, TRACENT, STAC, PIAC cũng không có quy định đề cập đến trách nhiệm hay giới hạn trách nhiệm cho trọng tài viên.

    Theo Đề cương dự thảo Luật Trọng tài thương mại cập nhật đến ngày 23/10/2023[1], một trong hai phương án mà ban soạn thảo đề ra là bổ sung quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm và phạm vi trách nhiệm của hội đồng Trọng tài và Trọng tài viên, theo hướng tương tự quy định của Luật mẫu UNCITRAL[2] (UNCITRAL Arbitration Rules 2021) (“Luật mẫu”). Theo Điều 16 Luật mẫu, các bên chỉ có quyền yêu cầu trọng tài chịu trách nhiệm trong trường hợp trọng tài có hành vi cố ý làm sai (“intentional wrongdoing”). Theo đó, mọi khiếu nại đối với trọng tài viên, cơ quan chỉ định và bất kỳ người nào được hội đồng trọng tài chỉ định dựa trên bất kỳ hành động hoặc thiếu sót nào liên quan đến trọng tài đều không được chấp nhận. Phạm vi giới hạn trách nhiệm này khá rộng.

    1.2. Bất cập

    Việc chưa có quy định về trách nhiệm hay giới hạn trách nhiệm cho trọng tài viên có thể dẫn tới hai hệ quả:

    Thứ nhất, khó đảm bảo tính độc lập, vô tư và khách quan của trọng tài vì sự lo ngại sẽ bị các bên khởi kiện hoặc chịu những tác nhân chi phối khác trong quá trình giải quyết tranh chấp và đưa ra phán quyết.

    Thứ hai, gây ra sự không rõ ràng trong xác định trách nhiệm của trọng tài viên vì hiện tại pháp luật dân sự cũng chưa có quy định liên quan điều chỉnh vấn đề này. Thậm chí điều này còn liên quan đến việc bản chất “kép” của trọng tài viên sẽ nghiêng về bên nào hơn, như một hoạt động tư pháp hay tiến hành công việc theo hợp đồng - một vấn đề còn đang tranh cãi. Do đó, cần thiết phải có quy định điều chỉnh về trách nhiệm của trọng tài, trên cơ sở thực trạng và định hướng phát triển phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của Việt Nam.

    1.3. Đề xuất

    Đa số quy định pháp luật về trọng tài các nước đều đặt ra vấn đề về miễn trừ trách nhiệm của trọng tài viên, đặc biệt là giới hạn cho sự miễn trừ này. Pháp luật Việt Nam thật sự cần thiết hòa vào xu thế chung đó, một mặt giúp tranh thủ được sự tin tưởng của tổ chức, cá nhân khi lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp, một mặt tạo điều kiện để phát triển tố tụng trọng tài, đảm bảo những nguyên tắc cơ bản như tính chung thẩm của phán quyết, tính vô tư và khách quan của trọng tài viên.

    Vấn đề cốt lõi trong xây dựng quy định về trách nhiệm trọng tài viên là việc cân bằng trong mức độ chịu trách nhiệm, làm sao để đồng thời đảm bảo việc các trọng tài viên độc lập, vô tư và khách quan trong xét xử và chất lượng xét xử của trọng tài viên: chất lượng trong tiến hành thủ tục tố tụng cũng như nội dung phán quyết.

    Theo quan điểm của chúng tôi, một số vấn đề sau cần được xem xét kỹ lưỡng khi xây dựng quy định về trách nhiệm của trọng tài viên:

    Thứ nhất, cần xác định xây dựng rõ việc quy định theo hướng (i) Trao cho trọng tài viên quyền miễn trừ nhưng có sự giới hạn ở một số trường hợp nhất định hay (ii) Quy định yêu cầu trọng tài viên phải chịu trách nhiệm, chỉ được miễn trừ trong một số trường hợp. Hiện tại, hướng xây dựng của Luật mẫu đang là hướng (i), chỉ giới hạn ở trường hợp trọng tài viên “cố ý làm sai”.   

    Thứ hai, cần giải thích khái quát cụm từ “intentionally wrongdoing” một cách phù hợp. Nếu tạm dịch cụm từ trên là “hành vi cố ý làm sai” thì cần giải thích như thế nào là “cố ý làm sai” và làm sai ở góc độ nào, về mặt tố tụng hay về mặt nội dung tranh chấp. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy đa phần quy định các nước sẽ không yêu cầu trọng tài viên chịu trách nhiệm nếu họ có sai sót về mặt nội dung, tức áp dụng quy định pháp luật và giải quyết chưa đúng luật vụ tranh chấp. Theo đó, các nhà lập pháp cần xác định có loại trừ trách nhiệm của trọng tài viên ở góc độ giải quyết chưa thỏa đáng về mặt nội dung tranh chấp hay không, hay nói cách khác là cần hiểu “cố ý làm sai” ở đây bao gồm cả tình huống trọng tài viên cố tình áp dụng sai quy định pháp luật hay không. Việc tách bạch trách nhiệm của trọng tài viên trong các vấn đề liên quan đến mặt tố tụng và mặt nội dung của vụ tranh chấp rất quan trọng. Vì dù sao đi nữa, liên quan đến khả năng giải quyết tranh chấp, trọng tài viên nên được giới hạn trách nhiệm khi họ đưa ra một phán quyết có sự sai sót. Bởi lẽ họ là người được các bên trực tiếp hoặc gián tiếp lựa chọn trên cơ sở tin tưởng về chuyên môn, được trao đầy đủ thẩm quyền để xem xét và giải quyết tranh chấp. Việc gán trách nhiệm cho trọng tài viên về mặt nội dung cũng sẽ khiến họ dè chừng, không đảm bảo tính độc lập, vô tư, khách quan khi xét xử.

    Thứ ba, một vấn đề nữa cần xem xét là có nên quy định theo hướng trao cho các trung tâm trọng tài quyền được xây dựng quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm đối với trọng tài viên thuộc trung tâm mình hay không. Vì đây là nội dung quan trọng, chúng tôi đề xuất cần quy định cụ thể trong luật và không mở rộng quyền quy định khác cho trung tâm trọng tài. Điều này sẽ đảm bảo sự thống nhất, vị thế ngang bằng giữa các trung tâm trọng tài, đồng thời ràng buộc trọng tài viên của bất kỳ trung tâm nào cũng thuộc một phạm vi chịu trách nhiệm nhất định, tránh sự mâu thuẫn, phân biệt giữa trọng tài viên các trung tâm, trong từng vụ việc giải quyết.  

    2. Quy định cụ thể về trường hợp xem như đã nhận thông báo

    2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam

    Luật Trọng tài thương mại 2010 đã có quy định về phương tiện gửi thông báo và thời điểm xem như các bên đã nhận được thông báo tại Điều 12. Tuy nhiên, quy định này vẫn còn thiếu sót khi chưa dự liệu đối với trường hợp các bên không thông báo hay chỉ định địa chỉ nhận thông báo hoặc có sự thay đổi về địa chỉ nhận thì thông báo được gửi đi như thế nào sẽ được xem là đã nhận.  

    2.2. Bất cập

    Trên thực tế, chậm gửi thông báo hay không nhận được thông báo là một trong những cơ sở mà một bên thường sử dụng để yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Việc không dự liệu tình huống một bên nào đó trong tranh chấp không chỉ định địa chỉ gửi thông báo hoặc có sự thay đổi về địa chỉ gửi thông báo mà không thông tin lại cho bên còn lại trong tranh chấp, trung tâm hay hội đồng trọng tài sẽ gây ra sự bất lợi cho các chủ thể này, không chỉ trong quá trình tiến hành thủ tục tố tụng mà còn ràng buộc trách nhiệm nếu sau này một bên có yêu cầu hủy phán quyết dựa trên cơ sở đó[3].

    2.3. Đề xuất

    Ban soạn thảo có thể tham khảo quy định tại Điều 2 Luật mẫu, cụ thể là Khoản 3 và 4. Theo đó, trong trường hợp không có chỉ định hoặc ủy quyền nhận thông báo thì thông báo được xem là đã nhận nếu: (i) được chuyển giao thực tế cho người nhận; hoặc (ii) được giao tại địa điểm nơi làm việc, nơi thường trú hoặc địa chỉ gửi thư của người nhận. Ngoài ra, Luật mẫu cũng đề cập tới sự nỗ lực hợp lý (reasonable effort) tại Khoản 4. Rằng nếu việc gửi thông báo đã được thực hiện bằng sự nỗ lực hợp lý thì được coi là đã nhận nếu nó được gửi đến địa điểm được biết đến lần cuối của người nhận về doanh nghiệp, nơi thường trú hoặc địa chỉ gửi thư theo địa chỉ đã đăng ký thư hoặc bất kỳ phương tiện nào khác miễn là có biên bản ghi nhận việc giao thư hoặc nỗ lực giao thư. Theo quan điểm của chúng tôi, quy định này của Luật mẫu đã phù hợp để tham khảo xây dựng quy định cho Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam.

    Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng luật Việt Nam hoàn toàn có thể giữ việc cho phép các bên thỏa thuận hoặc trung tâm trọng tài có quy định chặt chẽ hơn về vấn đề nhận, gửi thông báo này như đã ghi nhận tại Điều 12 của Luật Trọng tài thương mại hiện hành.