Điều kiện để hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có hiệu lực: góc nhìn từ Tòa án và thực tiễn

Tài Nguyên
    Điều kiện để hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có hiệu lực: góc nhìn từ Tòa án và thực tiễn
    Ngày đăng: 23/10/2024

    Trong giao dịch mua bán và sáp nhập (“M&A”) theo hình thức chuyển nhượng vốn góp/ chuyển nhượng cổ phần (sau đây gọi chung là “chuyển nhượng cổ phần”), thời gian hoàn tất giao dịch là một trong những yếu tố mà các bên đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ, đối với bên mua, việc nhanh chóng tiếp nhận cổ phần cùng với quyền kiểm soát để điều hành hoạt động của công ty mục tiêu là yêu cầu vô cùng quan trọng, trong khi đó, đối với bên bán là việc sớm nhận được các khoản thanh toán từ bên mua. Chính vì lẽ đó, thông thường việc tiếp cận, thương lượng và đàm phán giữa các bên sẽ diễn ra trước khi được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền (đối với các giao dịch M&A cần được chấp thuận). Trong một số trường hợp, các bên còn tiến hành ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần trong giai đoạn này. Điều này giúp các bên tiết kiệm được thời gian cho việc đàm phán, là cách để bên bán thể hiện thiện chí thực hiện giao dịch, đồng thời giúp bên mua hạn chế việc tiết lộ thông tin về giao dịch chuyển nhượng cổ phần cho quá nhiều bên quan tâm. Tuy nhiên, một vấn đề mà các bên cũng cần lưu tâm đó là liệu rằng những hợp đồng chuyển nhượng cổ phần được ký kết trước khi việc chuyển nhượng cổ phần được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền có phát sinh hiệu lực theo quy định của pháp luật? Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra một số góc nhìn từ nhiều khía cạnh để làm rõ vấn đề này.

     

     

    Góc nhìn từ một bản án

    Ngày 24/01/2024, Tòa án nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Bản án số 06/2024/KDTM-PT về tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Vụ tranh chấp phát sinh giữa nguyên đơn là Công ty Cổ phần Thủy điện Đắk R’Tíh (“Công ty Thủy điện Đ”) và bị đơn là Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam – Công ty Cổ phần (“Tập đoàn Cao su Việt Nam”) liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa hai công ty này. Theo đó, Tập đoàn Cao su Việt Nam theo chủ trương về việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành của Thủ tướng Chính phủ, đã chào bán toàn bộ lô cổ phần của mình tại các công ty con, hoạt động trong ngành thủy điện. Sau khi được chấp thuận chào bán toàn bộ cổ phần theo lô, Tập đoàn Cao su Việt Nam đã thực hiện việc chào bán và kết quả là Công ty Thủy điện Đ đã trúng đấu giá, trở thành bên mua trong giao dịch chuyển nhượng cổ phần. Các bên sau đó đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và Công ty Thủy điện Đ đã ký quỹ để bảo đảm thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, sau đó mặc dù Công ty Thủy điện Đ nhiều lần hối thúc nhưng Tập đoàn Cao su Việt Nam vẫn không thực hiện hợp đồng, cụ thể là không thực hiện các thủ tục để chuyển giao cổ phần cho Công ty Thủy điện Đ. Do đó, Công ty Thủy điện Đ đã khởi kiện Tập đoàn Cao su Việt Nam. Bản án sơ thẩm có nội dung chấp nhận gần như toàn bộ các yêu cầu của Công ty Thủy điện Đ về việc yêu cầu hủy bỏ hợp đồng, yêu cầu Tập đoàn Cao su Việt Nam phải hoàn trả khoản tiền kỹ quỹ, chịu phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, sau khi Tập đoàn Cao su Việt Nam kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm đã có quan điểm trái ngược. Theo đó, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng giao dịch chuyển nhượng cổ phần giữa các bên phải được chấp thuận từ cơ quan có thẩm quyền, trường hợp này, Tập đoàn Cao su Việt Nam vẫn chưa được chấp thuận từ cấp có thẩm quyền. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần chưa phát sinh hiệu lực. Trên cơ sở đó, Tòa án đã không chấp nhận các yêu cầu của Công ty Thủy điện Đ về việc yêu cầu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, vì cho rằng Tập đoàn Cao su Việt Nam không có lỗi trong trường hợp này.

    Trong bản án, Tòa án cấp phúc thẩm cũng đã viện dẫn các điều khoản của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, về hiệu lực của hợp đồng, thời hạn thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên, trong đó đề cập đến yêu cầu phải có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền đối với giao dịch chuyển nhượng để củng cố cho lập luận chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.

    Góc nhìn từ thực tiễn

    Ngoài trường hợp tại vụ tranh chấp trên, như đã đề cập tại phần mở đầu, để đẩy nhanh tiến độ các thương vụ mua bán, sáp nhập, các bên thường mong muốn đàm phán và thương thảo các điều khoản hợp đồng ngay cả khi giao dịch M&A chưa được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền. Trên thực tế, tại các hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, các bên thường đưa vào điều khoản điều kiện để hợp đồng có hiệu lực là giao dịch M&A phải được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời, sử dụng hợp đồng này để nộp cho cơ quan có thẩm quyền để xin chấp thuận M&A. Tại một số địa phương, việc các bên sử dụng hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, mặc dù có quy định về việc hợp đồng chỉ có hiệu lực sau khi được chấp thuận từ cơ quan có thẩm quyền thì cũng không được xem là hợp lệ. Cơ quan đầu tư căn cứ vào Điểm c Khoản 2 Điều 66 Nghị định 31/2021/NĐ-CP để yêu cầu các bên chỉ phải nộp văn bản thỏa thuận nguyên tắc về việc chuyển nhượng trong trường hợp này, thay vì hợp đồng chuyển nhượng. Ngoài ra, các cơ quan này còn cho rằng việc các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần như trên là không phù hợp quy định pháp luật. Tác giả cho rằng việc cơ quan đầu tư căn cứ vào Nghị định 31 để yêu cầu các bên nộp văn bản thỏa thuận nguyên tắc về việc chuyển nhượng là điều có thể hiểu được, nhưng quan điểm cho rằng các bên không được ký kết hợp đồng khi chưa được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền là không hợp lý. Bởi lẽ hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên, bao gồm cả điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định pháp luật, trường hợp các bên đã quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là giao dịch M&A phải được chấp thuận từ cơ quan có thẩm quyền thì thỏa thuận này cần được tôn trọng.

     

     

    Chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền có ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần không?

    Mặc dù thực tế các bên vẫn thường xuyên ký kết các hợp đồng chuyển nhượng cổ phần trước khi được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền, chúng tôi cho rằng, đối với các giao dịch M&A cần phải được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cũng chỉ phát sinh hiệu lực tại thời điểm giao dịch M&A được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, bất kể các bên có ghi nhận nội dung này trong hợp đồng hay không. Tuy nhiên, có một số trường hợp đáng lưu ý vẫn có thể xảy ra trên thực tế, có thể làm phát sinh tranh chấp giữa các bên.

    Thứ nhất là trường hợp tại thời điểm các bên ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, có tồn tại quy định về việc giao dịch phải được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, khi giao dịch chưa được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền thì quy định trên hết hiệu lực. Đây là trường hợp được khái quát từ vụ án đã nêu ở trên. Trong vụ án này, theo Quyết định 41/2015/QĐ-TTg về việc bán cổ phần theo lô, trường hợp công ty mẹ - tập đoàn kinh tế chuyển nhượng cổ phần theo hình thức thỏa thuận trực tiếp (được Thủ tướng Chính phủ cho phép) thì cơ quan đại diện chủ sở hữu báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định bán thỏa thuận trực tiếp cho nhà đầu tư. Nôm na là giao dịch giữa các bên phải được chấp thuận từ Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, khi điều kiện này chưa hoàn thành thì Quyết định 41/2015/QĐ-TTg đã hết hiệu lực. Điều này dẫn đến việc Tập đoàn Cao su Việt Nam không thể xin chấp thuận từ Thủ tướng Chính phủ (bởi quy định này đã hết hiệu lực) nhưng cũng không thể chuyển giao cổ phần cho Công ty Thủy điện Đ vì tại thời điểm ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ là điều kiện để hợp đồng này có hiệu lực. Theo quan điểm của tác giả, trường hợp này các bên có thể thỏa thuận để ký lại một Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần mới, khi đó, sẽ không còn bị ràng buộc bởi yêu cầu phải được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận thì mới có hiệu lực.

    Thứ hai là trường hợp các bên thỏa thuận về việc Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần chỉ phát sinh hiệu lực khi được chấp thuận bởi cơ quan có thẩm quyền, nhưng điều kiện này lại không phù hợp với quy định của pháp luật (cụ thể, điều kiện này không phải là điều kiện để giao dịch có hiệu lực theo quy định pháp luật). Trường hợp này trên thực tế vẫn xảy ra, khi các bên dù không thuộc trường hợp phải thực hiện thủ tục M&A approval nhưng vẫn quy định việc thực hiện thủ tục này là điều kiện để Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có hiệu lực, hoặc các bên thỏa thuận những điều kiện liên quan đến các thủ tục về chuyển nhượng dự án trong các Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.

    Đối với trường hợp này, tác giả cho rằng vì điều kiện mà các bên thỏa thuận không thể thực hiện được trên thực tế, do đó, hiệu lực của hợp đồng không phụ thuộc vào điều kiện mà các bên đã thỏa thuận, thay vào đó sẽ phụ thuộc vào ý chí và tình trạng thực hiện hợp đồng của các bên. Nếu có một bên đã thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, bên còn lại cần phải thực hiện nghĩa vụ đối ứng của mình, việc lấy lý do hợp đồng chưa phát sinh hiệu lực để từ chối thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp này là không hợp lý.

    Tóm lại, việc các bên ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần trước khi có các chấp thuận từ cơ quan có thẩm quyền là điều hợp lý và có thể hiểu được. Tuy nhiên, các bên cũng cần lưu ý đối với các giao dịch này về loại chấp thuận cần phải đạt được để có những quyết định phù hợp trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Bởi lẽ, tùy vào mỗi loại giao dịch khác nhau, các chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền cũng sẽ khác nhau, dẫn đến việc hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần chỉ có thể xác định trong những trường hợp cụ thể.