Bồi thường chi phí thuê Luật sư: Cần chấp thuận trong phạm vi hợp lý

Tài Nguyên
    Bồi thường chi phí thuê Luật sư: Cần chấp thuận trong phạm vi hợp lý
    Ngày đăng: 17/01/2024

    Trong phạm vi bài viết này, Luật sư điều hành Nguyễn Văn Phúc sẽ phân tích một số vấn đề liên quan đến thực tiễn việc bồi thường chi phí luật sư hiện nay trong các tranh chấp về dân sự nói chung, cũng như đưa ra một số đánh giá về tính khả thi trong việc chấp thuận yêu cầu này. Bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Sài Gòn số 52 - 2023 (phát hành ngày 28 - 12 - 2023).

    Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay, các tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều trong hoạt động kinh doanh là điều khó tránh khỏi. Khi phát sinh tranh chấp, việc các bên trong tranh chấp thuê luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng không phải là chuyện hiếm gặp, đặc biệt trong các tranh chấp có giá trị lớn. Một vấn đề được các bên đương sự hết sức quan tâm đó là liệu rằng chi phí mà họ đã bỏ ra để thuê luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình có được xem là khoản tiền mà bên còn lại phải bồi thường cho họ hay không. Trong bài viết này, tác giả sẽ phân tích một số vấn đề liên quan đến thực tiễn việc bồi thường chi phí luật sư hiện nay trong các tranh chấp về dân sự nói chung, cũng như đưa ra một số đánh giá về tính khả thi trong việc chấp thuận yêu cầu này.

    Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí luật sư đến từ tòa án

    Hiện nay, việc bồi thường chi phí luật sư chỉ được quy định minh thị tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005, theo đó, chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường chi phí luật sư. Ngoài quy định này, trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam gần như không đề cập đến loại thiệt hại là chi phí luật sư, ngoại trừ chi phí cho người bào chữa trong trường hợp chỉ định bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, sẽ không thuộc phạm vi của bài viết này.

    Lý do này đã dẫn đến việc các Toà án hiện nay chưa thực sự cân nhắc áp dụng bồi thường cho khoản chi phí này. Đơn cử trong Bản án số 19/2019/DS-PT ngày 13/9/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng[1], Tòa án nhân dân Tỉnh Hải Dương đã nhận định rằng: “Về chi phí  thuê luật sư tham gia tố tụng là 50.000.000 đ, khi tiến hành khởi kiện theo quy định của pháp luật người khởi kiện có quyền mời luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, Ông Kh thực hiện quyền này là tự nguyện, thỏa thuận dân sự”. Sau đó, Tòa án nhân dân Tỉnh Hải Dương đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của Ông Kh.

    Hay tương tự, trong Bản án số 01/2022/LĐ-ST ngày 10/01/2022 về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại, bảo hiểm xã hội và công khai xin lỗi liên quan đến kỷ luật lao động[2], Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương nhận định rằng “việc Ông T thuê Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là do Ông T tự lựa chọn, kết quả giải quyết một vụ án do tòa quyết định, không phụ thuộc vào yếu tố đương sự có hay không có luật sư nên chi phí thuê luật sư không phải là chi phí hợp lý, bắt buộc mà bên thua kiện phải trả cho người thắng kiện”. Lập luận này có vẻ khẳng định rất rõ ràng quan điểm của tòa án trong trường hợp này, chi phí thuê luật sư không phải là chi phí hợp lý mà bên thua kiện phải trả cho bên thắng kiện, việc có thuê luật sư hay không không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ việc.

    Quan điểm của trọng tài thương mại

    Trọng tài thương mại dường như có sự khác biệt so với tòa án khi tiếp cận với yêu cầu bồi thường chi phí luật sư.

    Cụ thể, trong Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19HCM lập ngày 02/12/2020[3], Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đã quyết định như sau: “Các bị đơn có nghĩa vụ liên đới bồi hoàn cho nguyên đơn phí trọng tài là 61.433,31 USD và phí Luật sư là 18.016,62 USD trong thời hạn 30 (ba mươi) ngày kể từ ngày Phán quyết có hiệu lực”.

    Có vẻ trọng tài thương mại đang theo hướng xem chi phí luật sư mà các bên phải chịu là chi phí liên quan đến hoạt động tố tụng trọng tài. Theo đó, Điểm h Khoản 1 Điều 61 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định Phán quyết trọng tài phải phân bổ chí phí trọng tài và các chi phí khác liên quan. Theo quy định này, trọng tài thương mại có quyền phân bổ các chi phí khác liên quan, bao gồm cả chi phí luật sư. Xét trên bình diện quốc tế, việc phân bổ chi phí này cũng phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 42 Quy tắc trọng tài UNCITRAL 2021[4].

    Tóm lại, việc trọng tài thương mại trong Phán quyết nêu trên quyết định bên thua kiện phải bồi hoàn chi phí luật sư cho bên thắng kiện xuất phát từ cách tiếp cận khác của trọng tài thương mại so với tòa án. Trong khi tòa án sẽ xem xét chi phí luật sư liệu rằng có phải là thiệt hại của bên yêu cầu bồi thường hay không thì trọng tài thương mại lại xem xét chi phí luật sư như một khoản chi phí liên quan đến hoạt động tố tụng trọng tài.

    Tính hợp lý của việc chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí luật sư

    Không phải ngẫu nhiên mà vấn đề bồi thường chi phí luật sư lại được các bên quan tâm trong các tranh chấp. Điều này xuất phát từ nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý để giải quyết tranh chấp ngày càng tăng. Luật sư, với kiến thức và kinh nghiệm của mình, có thể giúp đỡ rất nhiều cho khách hàng của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp. Đương nhiên, vai trò của luật sư càng sâu rộng, tranh chấp càng phức tạp thì chi phí mà khách hàng phải chi trả cho luật sư càng nhiều.

    Trong một số quan hệ pháp luật có sự chênh lệch về “vị thế” giữa các bên tham gia như quan hệ về lao động giữa doanh nghiệp và người lao động, quan hệ giữa nhà cung cấp với người tiêu dùng, không phải lúc nào bên yếu thế trong các hệ này cũng có đầy đủ thông tin, cũng như hiểu biết pháp lý về quan hệ pháp luật mà mình đang xác lập. Chính điều này cũng là lý do để pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể để bảo vệ cho bên yếu thế trong các quan hệ này. Đơn cử như quy định về giới hạn đặt ra đối với các nội dung trong quan hệ lao động, như tiền lương thử việc, tiền lương tối thiểu, hay quy định về đăng ký hợp đồng mẫu đối với các nhà cung cấp về điện, nước, nhà chung cư,… Đối với các quan hệ này, khi phát sinh tranh chấp, việc tiếp cận hồ sơ, tài liệu, thu thập chứng cứ để cung cấp cho tòa án hoặc trọng tài để giải quyết tranh chấp là điều không dễ dàng. Chưa kể, doanh nghiệp hay các nhà cung cấp thông thường đều có đội ngũ nhân sự pháp lý, luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Trong khi đó, với người lao động hay người tiêu dùng, nhiều trường hợp thậm chí họ còn không biết quyền và lợi ích của mình đang bị xâm phạm nếu không có sự tư vấn, trợ giúp từ luật sư.

    Như vậy, tác giả cho rằng việc chấp thuận yêu cầu bồi thường chi phí luật sư đối với những tranh chấp liên quan đến người lao động hoặc người tiêu dùng là điều cần thiết.

    Ngoài ra, khi giải quyết tranh chấp, đặc biệt là các tranh chấp tại tòa án, đương sự có thể yêu cầu tòa án thực hiện một hoặc nhiều thủ tục xuyên suốt các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp, đơn cử như các thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, xem xét, thẩm định tại chỗ,… Đây là những thủ tục không dễ để các đương sự có thể nhận biết và yêu cầu tòa án xem xét áp dụng. Do đó, những trường hợp này, luật sư đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Trong một số trường hợp, việc đương sự, dưới sự tư vấn của luật sư, thực hiện hợp lý các quyền được pháp luật cho phép, dẫn đến vụ tranh chấp được giải quyết nhanh chóng, hạn chế thiệt hại của đương sự. Tác giả cho rằng, nếu xảy ra trường hợp này, và đương sự chứng minh được rằng nếu không có sự tư vấn, hỗ trợ từ luật sư, đương sự sẽ không đưa ra được các yêu cầu hợp lý cho tòa án, chi phí luật sư lúc này có thể được xem là chi phí hợp lý để hạn chế thiệt hại theo quy định tại Khoản 2 Điều 361 Bộ luật Dân sự 2015.

    Cần cân nhắc chấp thuận ở mức độ hợp lý

    Như đã đề cập ở trên, việc chấp thuận yêu cầu bồi thường chi phí luật sư trong một số trường hợp là điều rất cần thiết và mang tính thực tiễn. Tuy nhiên, việc chấp thuận của cơ quan giải quyết tranh chấp cũng cần xem xét ở mức độ hợp lý.

    Thứ nhất, việc chấp thuận chỉ được xem xét nếu các bên tranh chấp cung cấp được tài liệu chứng minh. Tài liệu chứng minh có thể bao gồm các hợp đồng dịch vụ pháp lý được giao kết giữa công ty luật/văn phòng luật sư với các bên tranh chấp, hóa đơn thanh toán, lệnh chuyển tiền từ ngân hàng,… để các bên tranh chấp có thể thực hiện được các quyền của mình một cách dễ dàng, hoặc sự đóng góp của luật sư vào việc thúc đẩy tiến độ giải quyết vụ án, hạn chế thiệt hại cho bên sử dụng dịch vụ luật sư.

    Thứ hai, trong nhiều trường hợp, các bên tranh chấp, đặc biệt là các bên có tiềm lực tài chính mạnh, thường lạm dụng việc sử dụng các chi phí pháp lý nói chung và chi phí luật sư nói riêng. Không thể phũ nhận nhu cầu chính đáng của họ trong việc sử dụng dịch vụ pháp lý, tuy nhiên, lúc này các cơ quan giải quyết tranh chấp cần có sự đánh giá và cân nhắc đến tính phức tạp của vụ tranh chấp, kinh nghiệm và uy tín của luật sư đảm nhận vụ việc, cũng như các công việc của các luật sư đã thực hiện trên thực tế vụ án để có cơ sở chấp thuận ở mức độ hợp lý (đối với tòa án) hoặc phân bổ các chi phí liên quan (đối với trọng tài thương mại) một cách công bằng và phù hợp.

     

    Nhìn chung, việc chấp thuận yêu cầu bồi thường chi phí luật sư là vấn đề rất thực tiễn đặt ra đối với các cơ quan giải quyết tranh chấp, trong bối cảnh nhu cầu thuê luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp ngày càng tăng cao. Việc chấp thuận chi phí này ở một khía cạnh nào đó có thể giúp các bên mạnh dạn hơn trong việc sử dụng dịch vụ luật sư trong quá trình giải quyết tranh chấp và cũng giúp hoạt động pháp lý của Việt Nam tiệm cận với các nền pháp lý tiến bộ và phát triển hàng đầu trên thế giới. Đứng ở góc độ của cơ quan giải quyết tranh chấp, khi có sự tham gia của các luật sư, các đương sự có thể thực hiện các quyền của mình một cách hợp lý trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật, từ đó có thể giúp tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả hơn.