Dồn dập những thông tin áp thuế từ chính phủ Hoa Kỳ lên hàng hóa của các quốc gia nhập khẩu vào nước này. Mức thuế suất mỗi lúc tăng cao càng gây áp lực và lo lắng cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam không đứng ngoài “vòng xoáy” lo lắng này. Tuy nhiên, trước cơn sóng dữ, việc bình tĩnh để tìm đối sách phù hợp luôn là một lựa chọn khôn ngoan.

Hiểu đúng chính sách rất quan trọng
Ngày 10/2/2025, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký sắc lệnh áp thuế 25% lên các mặt hàng thép và nhôm nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 4/3/2025 và không có miễn trừ hay ngoại lệ cho bất kỳ quốc gia nào[1]. Đây là quyết định nhằm bảo vệ ngành công nghiệp nội địa và giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài. Chính quyền Mỹ kỳ vọng rằng mức thuế cao sẽ giúp các nhà sản xuất thép và nhôm trong nước cạnh tranh tốt hơn, tạo thêm việc làm và thúc đẩy phát triển kinh tế nội địa của Hoa Kỳ. Đồng thời, chính sách mới, tăng thuế nhập khẩu sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài, đặc biệt là từ các quốc gia có mức xuất khẩu thép và nhôm lớn vào Mỹ như Canada, Brazil, Hàn Quốc và Việt Nam. Quyết định này của Chính quyền Trump là một bước đi không mới nhưng gây rất nhiều khó khăn cho các quốc gia nhập khẩu nhôm, thép lớn vào thị trường này trong việc duy trì thị phần.
Chính sách tác động đa chiều
Có thể thấy quyết định này cùng với hàng loạt chính sách theo nguyên tắc “American First”[2] của Donald Trump có thể dẫn đến các biện pháp trả đũa từ các đối tác thương mại, gây ra căng thẳng và xáo trộn trong thương mại toàn cầu. Những tác động của các chính sách từ Hoa Kỳ sẽ luôn được các quốc gia và doanh nghiệp trên trên thế giới theo dõi sát sao và đánh giá mức độ ảnh hưởng để có biện pháp đối ứng phù hợp. Chính sách này của Hoa Kỳ cũng không phải là một ngoại lệ.
Với Hoa Kỳ, ngoài những mặt tích cực nên trên thì thị trường tiêu thụ của họ bị ảnh hưởng không nhỏ như: (1) Tăng giá sản phẩm. Giá thép và nhôm nhập khẩu tăng có thể dẫn đến chi phí sản xuất cao hơn trong các ngành như xây dựng, ô tô và hàng tiêu dùng, từ đó đẩy giá bán lẻ lên cao. (2) Nguy cơ lạm phát. Chi phí sản xuất tăng có thể góp phần vào lạm phát, ảnh hưởng đến sức mua của người tiêu dùng và tăng chi phí sinh hoạt.
Với Việt Nam, vì là một trong các quốc gia dẫn đầu xuất khẩu thép và nhôm vào thị trường Mỹ. Cụ thể, trong năm 2024, Việt Nam xuất khẩu khoảng 983 triệu USD thép và sản phẩm thép, cùng với 479 triệu USD nhôm và sản phẩm nhôm sang thị trường Hoa Kỳ[3]. Do đó, chính sách thuế mới gây ra không ít bất lợi cho việc nhập khẩu nhôm, thép vào thị trường này đối với các doanh nghiệp có liên quan của Việt Nam. Bất lợi đầu tiên và dễ nhìn thấy đó là việc giảm tính cạnh tranh. Mức thuế cao làm tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh của thép và nhôm Việt Nam tại thị trường Mỹ. Thứ hai, thị phần bị thu hẹp. Do giá cao, nhu cầu từ các nhà nhập khẩu Mỹ có thể giảm, dẫn đến giảm sản lượng xuất khẩu. Thứ ba, giá thép trên thị trường chung sẽ giảm mạnh. Do nguồn cung dư thừa và các sản phẩm nhôm, thép khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường Mỹ sẽ dẫn đến giá thép thế giới giảm do “cung lớn hơn cầu”.
Tuy nhiên, chính sách áp thuế nhập khẩu mới đối với nhôm, thép không phải hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam. Vì từ năm 2018, Việt Nam đã chịu mức thuế 25% đối với thép và 10% đối với nhôm theo Mục 232. Với sắc lệnh mới, mức thuế nhôm tăng lên 25%, đồng nhất với thép. Vì vậy, chính sách này chỉ ảnh hưởng đến mặt hàng nhôm của Việt Nam và các doanh nghiệp nhôm của Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu thép sang Mỹ cao như Tập đoàn Nam Kim, Tập đoàn Hoa Sen, Tôn Đông Á sẽ có bị tác động nhưng mức tác động không đáng kể. Hơn nữa, chính sách này của Hoa Kỳ không có bất kỳ giảm trừ hay ngoại lệ nào cũng giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam không phải gặp quá nhiều bất lợi khi phải cạnh tranh trực tiếp và sòng phẳng với các doanh nghiệp đến từ các quốc gia xuất khẩu nhôm, thép lớn vào Hoa Kỳ như Hàn Quốc, Mexico, Canada hay Brazil. Đặc biệt, khi các ngoại lệ và miễn trừ bị phá bỏ, các quốc gia có lợi thế trước đây như Canada hay Mexico sẽ buộc phải cạnh tranh sòng phẳng với các quốc gia còn lại mà không thể trông chờ vào các điều khoản có lợi từ hiệp định đã ký trước đây[4].

Nguồn: The Saigon Times
Giải pháp nào cho doanh nghiệp Việt Nam?
Trong bối cảnh thị trường thế giới có những biến động khôn lường trong thời gian qua, việc chủ động chuẩn bị các phương án đối phó phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu các rủi ro bị cuốn vào các trận “thương chiến” khốc liệt do các quốc gia lớn khai mào. Vậy đâu là giải pháp phù hợp và cần thiết trong bối cảnh này.
Thứ nhất, doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Tìm kiếm thị trường mới và giảm sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ bằng cách mở rộng sang các thị trường khác như ASEAN, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại tự do và có mối quan hệ giao thương tốt, trên nguyên tắc “có đi có lại” và tôn trọng lẫn nhau. Đồng thời, việc tìm hiệu và tận dụng các hiệp định FTA đã ký kết để có thể sử dụng các ưu đãi thuế quan từ các hiệp định thương mại này để tăng khả năng cạnh tranh là một giải pháp trước mắt là doanh nghiệp nên tìm đến.
Thứ hai, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và giảm chi phí sản xuất. Mặc dù đây là giải pháp tốn kém và cần nhiều thời gian nhưng là một giải pháp căn cơ và mang tính bền vững để doanh nghiệp có thể thúc đẩy khả năng cạnh tranh của chính mình trong bối cảnh mới. Theo đó, doanh nghiệp nên đầu tư công nghệ để cải tiến quy trình sản xuất để nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, việc tối ưu hóa quản lý bằng cách áp dụng các biện pháp quản lý hiệu quả để giảm chi phí vận hành cũng là cách để doanh nghiệp có thể cạnh tranh sòng phẳng với các nhà sản xuất lớn trên thế giới trong lĩnh vực này.
Thứ ba, tăng cường phòng vệ thương mại cho chính mình. Doanh nghiệp cần lưu ý rằng việc theo dõi chính sách, cập nhật thường xuyên các thay đổi về chính sách thương mại của Mỹ và các thị trường khác để có biện pháp ứng phó kịp thời. Vì hơn hết, mọi sự chuẩn bị trước “giông bão” là luôn luôn cần thiết và nên làm để giảm thiểu thiệt hại tối đa. Đồng thời doanh nghiệp cần chú trọng việc hợp tác, liên hệ chặt chẽ với các cơ quan chức năng, như Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công Thương tỉnh, thành phố để nắm bắt các thông tin và các hướng dẫn chính sách phù hợp, chính thống để có thêm các giải pháp tối ưu trong việc ứng phó với các diễn biến mới của chính sách và thị trường. Ngoài ra, khi đối mặt với các vụ kiện phòng vệ thương mại, doanh nghiệp cần hợp tác, làm việc chặt chẽ, cẩn trọng với cơ quan chức năng để bảo vệ lợi ích của mình.
Cuối cùng, doanh nghiệp nên phát triển sản phẩm giá trị gia tăng cao. Việc đa dạng hóa sản phẩm bằng cách chuyển hướng sản xuất sang các sản phẩm thép và nhôm có giá trị gia tăng cao, đáp ứng nhu cầu của các thị trường ngách, chưa nhiều doanh nghiệp và quốc gia khác khai phá cũng là một giải pháp lâu dài mà doanh nghiệp nên hướng tới. Vì việc phát triển sản phẩm mang tính đặc thù và giá trị cao sẽ giúp cho doanh nghiệp thúc đẩy nhu cầu của khách hàng trong thị trường nhan nhãn các sản phẩm giống nhau. Để làm được điều này doanh nghiệp cần tập trung vào lĩnh vực R&D (nghiên cứu sản phẩm và thị trường) để hiểu rõ nhu cầu và xu hướng của từng thị trường để phát triển sản phẩm phù hợp.
Nhìn chung, việc Mỹ áp thuế 25% lên thép và nhôm nhập khẩu đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, bằng cách đa dạng hóa thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng cường phòng vệ thương mại, các doanh nghiệp có thể giảm thiểu tác động tiêu cực và tiếp tục phát triển bền vững giữa những biến động khó đoán của thị trường trong thời gian tới.
Luật sư Nguyễn Văn Phúc
Công ty Luật TNHH HM&P
[1] https://www.reuters.com/world/us/tariffs-updates-trump-set-out-new-metals-tariffs-2025-02-10/, truy cập lần cuối ngày 16/02/2025
[2] Tạm dịch: Hoa Kỳ trên hết, đặt mọi quyền lợi, lợi ích của Hoa Kỳ lên trên tất cả. Xem thêm: https://en.wikipedia.org/wiki/America_First_(policy)
[3] https://laodong.vn/kinh-doanh/anh-huong-cua-nganh-thep-nhom-viet-nam-khi-my-ap-thue-25-1461828.ldo, truy cập lần cuối ngày 16/02/2025
[4] Hiệp định USMCA giữa Hoa Kỳ, Canada và Mexico có hiệu lực từ ngày 01/07/2020. Theo Hiệp định này và các quy định có liên quan Canada và Mexico được miễn thuế 25% của Mỹ theo Mục 232 nhưng phải đảm bảo thép xuất khẩu vào Mỹ có ít nhất 70% nguyên liệu từ Bắc Mỹ. Xem thêm https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_th%C6%B0%C6%A1ng_m%E1%BA%A1i_USMCA; truy cập lần cuối ngày 16/02/2025.
+84 28 7308 0839
